Lược sử

  • Địa chỉ: 10/8 Ấp Trung Lân, Bà Điểm
  • Bổn mạng: Thánh Giuse Thợ
  • Điện thoại: 3712 6055
  • Năm thành lập: 1863 - 1992
 
Lược sử Giáo Xứ Bà Điểm
từ năm 1863 cho đến nay

tạm chia làm 4 giai đoạn cơ bản như sau:
* Giai đoạn 1: Từ năm 1863 đến năm 1903.
* Giai đoạn 2: Từ năm 1903 đến năm 1954.
* Giai đoạn 3: Từ năm 1954 đến năm 1975.
* Giai đoạn 4: Từ năm 1975 cho đến nay.
Giai đoạn 1: Từ năm 1863 đến 1903
Lược trích tạp chí Nam Kỳ Địa Phận- 1917:
Giáo Xứ Bà Điểm xưa gọi là Họ Bà Điểm. Họ này do Cha Lý ( Paulus Galy) đã thành lập vào năm 1863 ( Quí Hợi) dưới thời Đức Thánh Giáo Hoàng PIÔ IX (đời thứ 255), và thời Đức Giám mục Dominique Lefèbvre (Đức Cha Ngãi), số Giáo Dân được khoảng 140 người.
Đây là lịch sử của họ đạo nhỏ bé này:
Khi quân đội pháp chiếm được đồn Thuận Kiều, họ đóng quân ở đó luôn, nhưng những người Pháp này không biết tiếng việt, họ đã xin cha Galy đến ở trong đồn với họ để giúp họ thông dịch, mọi sự nhà nước Pháp đều lo cho cha.
Vào thời điểm này, phần lớn những làng mạc của người Việt Nam vùng Bà Điểm tiếp tục nổi dậy chống chính quyền Pháp và nhiều cuộc nổi dậy đã bị dập tắt nhanh chóng. Chính khi đó có tin đồn rằng những người Pháp sẽ phá hủy 18 thôn vườn trầu. ông Huyện Sở (lúc đó làm Hương chức trong làng) nghe tin đồn này thì lo sợ. Ông đến với nhiều người khác tìm Cha Galy và xin Cha cứu họ khỏi sự tàn phá đổ nát, đồng thời họ hứa sẽ trở lại đạo Công Giáo. Cha Galy đã nói điều đó với các sĩ quan Pháp, nhờ thế những người này được bình an và đã vô đạo.
Năm 1863, những người Pháp đã cho Cha Galy một miếng đất nhỏ, chỗ cất Nhà Thờ bây giờ, cha Galy đã xây một Nhà Thờ lợp tranh, vừa làm nhà ở, vừa làm Nhà Nguyện đồng thời cũng là nơi dạy các Tân Tòng. Năm 1865, có một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bằng gỗ, lợp ngói. Cha Galy lúc này đã già yếu nhưng vẫn hết lòng chuyên lo tìm kiếm các linh hồn về với Chúa. Cha Galy đã truyền bá Phúc Âm nhiều làng mạc chung quanh Bà Điểm như: Mỹ Huê, Thới Thượng, Vĩnh Lộc, người ta trở lại đạo trong mấy chỗ này cũng được năm, sáu chục người, chính Cha đã dạy dỗ và Rửa Tội cho những người này.
Cha Galy cũng thường xuyên giúp những người tân tòng tiền bạc. Ngày Chúa Nhật tất cả các KiTô hữu hay những Tân Tòng đến từ các làng mạc khác nhau để dự Lễ tại Bà Điểm, họ sẽ chỉ trở về sau khi đã dùng bữa do cha Galy đài thọ.
Đang khi cha Galy lo làm việc mở mang nước Chúa thì chúa gọi Cha về hưởng phúc đời đời. Ngài mất tại Bà Điểm ngày 15 tháng 10 năm 1869, xác của Cha được chôn cất tại đất Thánh Bà Điểm giữa con cái của ngài. Cha Galy đã lập họ Bà Điểm và đã ở đó cho tới khi về với Chúa, như vậy thời gian cha Galy ở Bà Điểm được gần bảy năm.trong thời của Cha Galy số giáo dân của họ đạo Bà Điểm ngày một gia tăng, tuy nhiên sau này vì không có Cha thường xuyên ở tại họ đạo, nên số giáo dân bắt đầu giảm sút, thậm chí một số giáo dân đã bỏ đạo. Tính đến năm 1911, số bổn đạo của họ Đạo Bà Điểm chỉ còn khoảng từ 60-70 người.Họ Đạo Bà Điểm có một miếng đất là chỗ cất Nhà Thờ mà thôi, họ đạo không có huê lợi gì, không có nhà Cha Sở, khi các Cha tới ban các Bí Tích thì ở tại phòng mặc áo.
Sau đó Đức Giám Mục Dominique Lefebre Ngãi điều động Cha Thành đến giúp họ Đạo. Cha Thành ở tại họ Đạo khoảng 1 năm rưởi rồi đổi đi.
Sau khi Cha Thành đi, Cha Vĩnh ( P. Le Vicent) đến giúp Họ Đạo cho đến 1874.
Qua năm 1874, đời Đức Giám Mục Isidor Francois Joseph Colombert ( Mỹ) thì Cha Báu thay thế Cha Vĩnh, cùng thời Cha Báu có Dì Matta Lành ( theo tài liệu Nam Kỳ địa phận số 449 trang 565 có ghi: Bà Nhất Lành là cựu bà nhất Cái Mơn). Vào năm 1877 Cha Điều thay thế Cha Báu , nhưng Cha Điều thường ở họ Hóc Môn, Cha Điều coi sóc họ Bà Điểm cho đến năm 1881 thì Cha Thạch đến thay thế Cha Điều, sau đó đến năm 1903 Cha Chinh Đến giúp họ đạo Bà Điểm thời Đức Giám Mục Lucien Emile Mossard (Đức Cha Mão).Khi Cha Lý qua đời, từ đó về sau Cha ở họ Hóc Môn qua dâng Lễ và cử hành các Bí Tích rồi về.Sau đó , họ đạo Bà Điểm nhập vào họ Tân Hưng, đến năm 1903 thì nhập vào Hạnh Thông Tây, Sau đó lại nhập về Hóc Môn.
Khi Cha Điều Coi sóc Bà Điểm, thì đã cho làm lại Nhà Thờ Bà Điểm ( vào khoảng năm 1877 đến năm 1881) , nhưng nhà Thờ ấy đã hư, đến năm 1903, Cha Chinh đã cho Xây cất nhà Thờ mới.
Giai đoạn 2: Từ năm 1903 đến năm 1954
Giai đoạn từ năm 1903 đến năm 1954 do những điều kiện khách quan , tư liệu hoàn toàn bị thất lạc.
Tuy nhiên, có tư liệu về danh sách các Dì đã cộng tác mục vụ tại Họ Bà Điểm từ năm 1928 đến 1945, thời gian các Dì cộng tác lâu năm như sau : Dì Tỏ , 5 năm , Dì Muôn , 6 năm , Dì Maria Đặng thị Mến 8 năm ( bắt đầu từ năm 1938 đến năm 1945) . Từ năm 1946 đến năm 1954 các Dì ngưng hoạt động tại họ đạo.
Giai đoạn 3: Từ năm 1954 đến năm 1975
Bắt đầu từ năm 1954, ngày 21-7-1954 hiệp định Genève đã chia đôi đất nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17, gần 1 triệu người miền Bắc di dân vào niền Nam. Do đó các Giáo Phận miền Nam nhanh chóng phát triển. Trong giai đoạn từ 1954 đến năm 1975 tư liệu bị thất lạc hoàn toàn , ban biên soạn lược sử cũng ghi nhận có một số Cha đã giúp cử hành Thánh Lễ tại Giáo Xứ . Đây chính là thời điểm biến động nhất của Giáo Xứ Bà Điểm : Đất nước đang chiến tranh , bị bão lụt năm 1964 , kế đó bị hỏa hoạn năm 1972 , đến thời điểm 1975, một số Cha đã mất, một số Cha đi nước ngoài, chỉ còn duy nhất Cha Tôma Trần Quốc Phú hiện đã về hưu tại Nhà Thờ Hy Vọng . Cha Phú hiện thượng thọ 91 tuổi.
Như thế có thể tạm tóm lược giai đoạn 3 như sau :
Từ năm 1954 đến năm 1957 : Cha Thời. 
Từ năm 1957 đến năm 1962 : Cha Thiên. 
Từ năm 1762 đến năm 1964 : Cha Khánh , Cha Thời. 
Từ năm 1964 đến năm 1971 : Cha Nhạn , Cha Phan , Cha Ngọc. 
Từ năm 1971 đến năm 1972 : Cha Thời. 
Từ năm 1972 đến năm 1973 : Cha Phú. 
Từ năm 1773 đến năm 1975 : Cha Thời.
Ngoài ra trong giai đoạn này còn có các Cha thỉnh thoảng đến cử hành Thánh Lễ tại Giáo Xứ như Cha Vũ Hân ( đi nước ngoài ) , Cha Vinh Sơn Bùi Quang Điện ( hiện là chánh xứ Nam Hưng).
Vào giai đoạn Cha Thiên phục vụ ( 1957 đến năm 1962 ) Ban Hành Xứ đầu tiên được thành lập nhiệm kỳ 3 năm từ năm 1960 đến năm 1962 gồm chủ tịch là ông Lê Văn Út và cộng tác là ông Tám Hằng. Từ khi ông Lê Văn Út mất vào tháng 8 năm 1963, do điều kiện chiến tranh, ban Hành Xứ tạm ngưng hoạt động.
Giai đoạn 4 : Từ năm 1975 đến năm 2004
Từ năm 1975 đến tháng 6/2001.
Đây là thời kỳ tương đối ổn định , tuy nhiên tư liệu vẫn bị thất thoát , thời điểm từ năm 1975 đến năm 1977 có các Cha đến giúp dâng lễ tại Giáo Xứ là Cha Diên , Cha Hưng (mất) , Cha Phan (mất) , Cha Hiếu ( hiện đang ở tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse). Vào thời điểm này, từ năm 1975 – 1977 là nhiệm kỳ lần 2 của ban hành xứ gồm : Chú 10 Vân , Chú Sáu Nhỏ , Chú Ba Tánh . Sau thời điểm này , do Cha Phan đi cải tạo và đã chết , ban hành xứ tạm ngưng hoạt động chỉ có chú Sáu Nhỏ hoạt động một mình.
Bắt đầu từ năm 1977 đến năm 1985 có Cha Giuse Trần Văn Đắc ( sinh năm 1946 , thụ phong linh Mục năm 1977 , địa chỉ Nhà Thờ Bình Thái kiêm xứ Bình Hưng – Bình An) ,Cha Đắc đã nới rộng mặt bằng và xây một nhà Thờ mới hoàn toàn vào năm 1982 .
Do điều kiện khách quan của thời cuộc nên ban hành xứ được tạm gọi là “Ban Thiện Chí” gồm chú 10 Vân và chú Sáu Nhỏ ( nhiệm kỳ 3 năm từ năm 1980 – 1982) . Sau nhiệm kỳ này , ban Thiện Chí tạm ngưng hoạt động , chú 10 vân đi định cư ở nước ngoài
.
Đến năm 1984 , ban Thiện Chí lại tiếp tục nhiệm kỳ 4 với các chu Chín Khánh , chú Sáu Nhỏ , chú Tuấn Anh , nhưng ban Thiện Chí chỉ hoạt động đến năm 1985 thì lại tạm ngưng.
Khi Cha Đắc đi thì Cha Thống đã thay thế , Cha Thống phục vụ cho Giáo Xứ từ năm 1985 đến năm 1992.
Cha Gioan Kim Trần Tử Hải ( sinh năm 1947, thụ phong Linh Mục năm 1975 , địa chỉ nhà Thờ Phú Quí – Phú Nhuận) thay Cha Thống coi sóc giáo Xứ . Từ năm 1992 đến năm 1997 . Trong thời gian này , Cha Hải đã cho sửa lại Cung Thánh và xây nhà Giáo Lý .
Năm 1997 Cha Phanxico Xavie Trần Văn Thi ( sinh năm 1957 thụ phong Linh Mục năm 1992 , địa chỉ hiện nay Giáo Xứ Lạc Quang) thay thế Cha Hải cho đến năm 1999. Vào thời điểm này các Dì Dòng Mến Thánh Giá đã cho xây tường rào khuôn viên Nhà Thờ ( Dì Anna lê Thị Huệ , Dì Maria Nguyễn Thị Hồng Loan )
Năm 1999 Cha Antôn Phạm Gia Thuấn ( hiện là Cha Hạt Trưởng Hạt Hóc Môn ) thay Cha Thi kiêm nhiệm Giáo Xứ Bà Điểm . Ngoài ra còn có Cha Hổ , Cha Quang , Cha Cường cùng giúp cho Giáo Xứ. Đây là giai đoạn củng cố , sửa chữa , sắp xếp lại để Giáo Xứ có được bộ mặt khang trang như ngày hôm nay.
Ngày 28-8-2003, Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận TP-HCM đã bổ nhiệm LM Phêrô Trần Văn Thanh , sinh ngày 18-5-1961, thụ phong Linh Mục ngày 30-5-2000 tại TP.HCM,về Nhà Thờ Bà Điểm làm Chánh Xứ.
Ngày 30-9-2003 Cha Phêrô Trần Văn Thanh chính thức về coi xứ Bà Điểm , Cha đã đổ nhiều công sức cho 1 Giáo Xứ đã nhiều năm không có Linh Mục trực tiếp coi sóc, xây dựng các cộng đoàn, tu sửa cơ sở vật chất, chăm sóc Giáo Dân, công tác Mục Vụ, và nhất là Thiếu Nhi được Cha hết lòng lo lắng và xây dựng.
Đến cuối năm 2009, Cha bị bệnh kéo dài đến giữa năm 2010 thì Cha Xin nghỉ dưỡng bệnh , Đức Hồng Y Gioan Baotixita Tổng Giám Mục Giáo Phận chấp thuận và Cha đã rời Giáo Xứ đi dưỡng bệnh.
Ngày 18 – 8 – 2011, Đức Hồng Y Gioan Baotixita đã bổ nhiệm Cha Phêrô Nguyễn Văn Bắc , Sinh ngày 2-11-1957 thụ phong Linh Mục ngày 27-6-1992 làm chánh xứ Bà Điểm cho đến nay.
Cha Phêrô Nguyễn Văn Bắc vẫn giữ nguyên HĐMV và các đoàn thể cũng như các sinh hoạt của Giáo Xứ như cũ.
Năm 2004 là năm Giáo Xứ ghi lại lược sử các sự kiện , dữ liệu , con số thống kê được đúc kết tại thời điểm 31 – 12 – 2004 do Cha Phêrô Nguyễn Văn Thanh là chánh xứ Bà Điểm từ năm 2003 đến năm 2010 sưu tầm và biên soạn . Như vậy , mức khởi điểm được bắt đầu từ năm 1863 cho đến ngày biên soạn lược sử Giáo Xứ .